-1-

Căn Nguyên Sống Đạo: Là Con Thiên Chúa 

            Với lương tâm chân chính, là người, ai cũng tin có một Đấng Tối Cao.

            Thế nhưng, Đấng Tối Cao của các tôn giáo khác, dù đa thần hay độc thần, kể cả Do Thái Giáo, cũng không phải hay chưa hoàn toàn là Đấng Tối Cao như chính Ngài đă tự tỏ ḿnh ra nơi Đức Giêsu Kitô, vị giáo tổ của Kitô giáo, Vị mà nhờ Người, Giáo Hội Kitô giáo nói chung và Kitô hữu nói riêng vẫn nhận biết và tuyên xưng:

            "Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu h́nh và vô h́nh".

            Nếu sống đạo là sống đức tin của ḿnh, th́ Kitô hữu sống đạo là Kitô hữu sống tin vào "Thiên Chúa là Cha" của ḿnh. Đúng thế, "Thiên Chúa là Cha" chẳng những là một chân lư hết sức nền tảng của Thần Học Kitô Giáo mà c̣n là một đối tượng tối hậu cho Tu Đức Học Kitô Giáo nữa.

            Trước hết, "Thiên Chúa là Cha" là một chân lư hết sức nền tảng của Thần Học Kitô Giáo. Bởi v́, theo thứ tự của kinh Tin Kính, hay theo thứ tự của cơ cấu Đức Tin Kitô giáo cũng thế, trước khi tuyên xưng tất cả những ǵ Thiên Chúa làm, như dựng nên trời đất, xuống thế cứu chuộc, dạy dỗ thánh hoá và phán xét cánh chung, Kitô hữu tuyên xưng Thiên Chúa là, "là Cha".

            Phải, chính v́ "Thiên Chúa là Cha", mà "Cha" bao giờ cũng hàm nghĩa yêu thương và sự sống. nên tất cả mọi việc Ngài làm, như kinh Tin Kính liệt kê sau đó, đều phát xuất bởi t́nh yêu của một Vị Cha trên trời, Đấng muốn thông ban sự sống Ḿnh cho tạo vật của Ngài. Như thế, theo khách quan của niềm tin, nếu Kitô hữu tuyên xưng Đấng Tạo Hoá là Cha của tôi, th́ theo chủ quan của ḷng mến, họ cũng có thể tuyên ngôn Cha của tôi là Đấng Tạo Hoá.

            Bởi thế, để mở đầu một chuỗi (50) hay một tràng (150) kinh Mân Côi, kinh Lạy Cha được đọc ngay sau khi đọc kinh Tin Kính rất là thích hợp. Ở chỗ, sau khi nhận biết "Thiên Chúa là Cha" của ḿnh, Đấng đă tạo dựng, cứu chuộc và thánh hoá ḿnh, cho ḿnh được sống đời đời với Ngài, Kitô hữu liền "nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ư Cha thể hiện", rồi sau đó thiết tha "xin Cha cho chúng con" luôn biết sống xứng đáng là con cái của Cha, qua việc làm theo ư Cha, rộng lượng bao dung như Cha, và trung thành với Cha. Mà trong thành phần con cái của "Thiên Chúa là Cha", không ai sống trọn hảo kinh Lạy Cha như Mẹ Maria, do đó, ngay sau kinh Lạy Cha, phần mở đầu của một chuỗi hay tràng Mân Côi được tiếp tục bằng 3 kinh Kính Mừng.

            Sau nữa, "Thiên Chúa là Cha" là một đối tượng tối hậu cho Tu Đức Học Kitô Giáo. Đúng thế, một khi đă thực sự nhận biết và sâu xa thâm tín "Thiên Chúa là Cha" của ḿnh, th́ Kitô hữu sẽ tỏ ra ít là ba thái độ thảo kính cân xứng sau đây.

            Thái độ thảo kính cân xứng thứ nhất đó là Kitô hữu sẽ luôn luôn mang trong ḿnh một tâm t́nh vô cùng biết ơn cám mến, được diễn tả bằng việc sốt sắng tham dự Thánh Lễ là Hiến Tế Tạ Ơn bao giờ có thể.

            Thái độ thảo kính cân xứng thứ hai đó là Kitô hữu sẽ luôn luôn t́m biết ư muốn của Cha ḿnh để làm theo cho đẹp ḷng Ngài; cái họ sợ nhất là làm mất ḷng Cha của họ; nếu nhỡ làm mất ḷng Đấng đă yêu thương ḿnh vô cùng, họ liền chạy đến với t́nh yêu nhân hậu của Ngài nơi Bí Tích Ḥa Giải.

            Thái độ thảo kính cân xứng thứ hai này c̣n dẫn Kitô hữu đến việc ham thích chiêm ngắm Lời Chúa trong Thánh Kinh, nhất là trong Phúc Âm; họ say mê t́m hiểu và áp dụng giáo huấn thần linh của Chúa vào mọi tác hành hay mọi biến cố của đời sống riêng ḿnh, cũng như vào môi trường sinh hoạt hay tâm thức văn hoá thời đại; họ c̣n chú tâm đặc biệt đến tất cả những giáo huấn của Giáo Hội như là Phúc Âm được hiện đại hoá vậy.

            Thái độ thảo kính cân xứng thứ ba đó là Kitô hữu sẽ hoàn toàn liên lỉ phó thác mọi sự nơi ḷng yêu thương của Cha ḿnh, bằng việc sẵn sàng chấp nhận mọi sự xẩy ra cho ḿnh bất cứ bởi đâu, dưới bất cứ h́nh thức nào, như bởi chính Cha của ḿnh, như cách Ngài âu yếm đứa con cưng của Ngài, Đấng quan pḥng tất cả mọi sự và chỉ muốn cho con cái Ngài lợi ích thiêng liêng tối đa mà thôi.

            Phải, cuộc đời sống đạo của Kitô hữu được bắt đầu từ đây, từ mối liên hệ cha con mật thiết giữa họ với Thiên Chúa này. Nói cách khác, lư do Kitô hữu sống đạo v́ họ là con cái của Thiên Chúa và Thiên Chúa là Cha của họ. Bởi vậy, sống đạo chính là sống t́nh con cái với Thiên Chúa là Cha của ḿnh ở trên trời.

            Tuy nhiên mối liên hệ yêu thương giữa Kitô hữu với Thiên Chúa là Cha trên trời của họ không phải từ họ mà có. Nghĩa là không phải Kitô hữu tự nhiên nhận biết Thiên Chúa và yêu mến Thiên Chúa, mà là do chính Thiên Chúa tự động mạc khải ḿnh cho họ qua Con Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Đó là lư do thánh Gioan Tông Đồ đă tuyên ngôn: "T́nh yêu là thế này, không phải chúng ta đă yêu mến Thiên Chúa mà là Thiên Chúa đă yêu thương chúng ta trước và đă ban Con ḿnh làm hy tế đền tội lỗi cho chúng ta" (1Jn.4:10).

            Phải, mối liên hệ yêu thương giữa Kitô hữu và Thiên Chúa là Cha trên trời của họ bắt nguồn từ "Thiên Chúa là t́nh yêu" (1Jn.4:8,16): "Thiên Chúa đă yêu thế gian đến ban Con Một ḿnh" (Jn.3:16), chảy xuống qua Đức Giêsu Kitô: "Cha Thày yêu Thày thế nào, Thày cũng yêu các con như vậy" (Jn.15:9), và "tuôn đổ vào ḷng chúng ta nhờ Thánh Thần được ban cho chúng ta" (Rm.5:5), Đấng "chứng thực với ḷng chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa" (Rm.8:16).

            Phần Kitô hữu, họ đă "chấp nhận Người" (Jn.1:12), "Đấng Cha sai" (Jn.17:3), khi họ lănh nhận Bí Tích Rửa Tội. Từ đó, t́nh yêu Thiên Chúa mà Kitô hữu chấp nhận khi tin vào Đức Giêsu Kitô luôn ở trong họ. Hay nói cách khác, Thiên Chúa ở trong Kitô hữu bằng t́nh yêu của Ngài, tức bằng Thánh Linh của Ngài. Đó là lư do Kitô hữu "là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần ngự trong (họ)" (1Cor.3:16), "thân xác (họ) là đền thờ của Thánh Thần" (1Cor.6:19).

            T́nh yêu Thiên Chúa hay Thánh Thần Thiên Chúa ở nơi Kitô hữu một cách thần linh như thế chẳng khác ǵ như một kho tàng được chôn dấu trong thửa ruộng nhân tính của ḿnh mà Kitô hữu cần phải khám phá ra, giữ ǵn cẩn thận để có thể chiếm hưởng bằng việc từ bỏ tất cả những ǵ ḿnh có (x.Mt.13:44).

            Mối t́nh con cái đối với Thiên Chúa là Cha nơi Kitô hữu này càng trọn hảo, Kitô hữu sẽ càng thánh thiện, càng được thần linh hoá, càng nhận biết Thiên Chúa như Thiên Chúa biết ḿnh Ngài. Để rồi, nhờ kiến thức thần linh này, tức là nhờ được hưởng kiến Thiên Chúa bằng đức tin sống động của ḿnh, dù chưa được phúc chiêm hưởng Thiên Chúa vô cùng toàn thiện trên trời, Kitô hữu cũng đă bắt đầu "được sống và sống viên trọn hơn (x.Jn.10:10).

            "Được sống và sống viên trọn hơn" chính là tuyệt đỉnh của đời sống đạo nơi Kitô hữu. Tầm mức "được sống và sống viên trọn hơn" này là ở chỗ, người Kitô hữu là con cái Thiên Chúa được nên một với Ngài là Cha của ḿnh, tức là họ được hoàn toàn thần hiệp với Ngài: Ngài sống trong họ và họ sống trong Ngài, như nơi trường hợp của Đức Kitô khi Người cho các môn đệ biết rằng: "Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày" (Jn.14:10), hay khi Người cầu cùng Cha của Người: "Cho tất cả được nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha" (Jn.17:21).

            Và sinh lực của đời sống đạo tuyệt đỉnh thần hiệp này nơi Kitô hữu "sẽ trổ sinh muôn vàn hoa trái" (Jn.15:5). Ở chỗ, qua cuộc sống xứng đáng với thân phận làm con cái Thiên Chúa là Cha trên trời của họ, được thể hiện trọn lành nơi tư tưởng, lời nói và việc làm của họ, người ta sẽ nhận biết Thiên Chúa và trở về với Ngài, như đă từng xẩy ra nơi các thánh nhân trong lịch sử Giáo Hội. Bởi v́, lúc ấy, Kitô hữu thánh nhân không c̣n sống sự sống riêng của ḿnh nữa (x.Gal.2:20), mà là sự sống của Thiên Chúa, Đấng tỏ ḿnh ra nơi họ, qua họ và nhờ họ.

            Bấy giờ, bởi Thiên Chúa sống trong ḿnh, con người của vị thánh nhân thời đại, điển h́nh nhất thế kỷ 20 này là Mẹ Têrêsa Calcutta, sẽ trở thành một bí tích thần linh sinh ơn cứu rỗi, và các việc làm của họ, dù âm thầm kín đáo mấy đi nữa, như của chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu 9 năm ngắn ngủi trong ḍng kín, sẽ trở thành một ngọn gió thần linh, có sức lôi cuốn và đánh động ḷng người vốn hướng về Chân Thiện Mỹ, để nhận biết "Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất" (Jn.17:3).

            Như thế, cuộc đời sống đạo của Kitô hữu chẳng những là một cuộc hành tŕnh đức tin tiến lên gặp gỡ để được thần hiệp với Thiên Chúa là Cha trên trời của ḿnh, mà c̣n là một cuộc nhập thể như men trong bột để Phúc Âm hoá nhân gian.

            Theo nguyên lư sống đạo là phải đạt đến một tŕnh độ thần hiệp th́ mới có tính cách nhập thể cứu đời này của Kitô giáo như thế, cuộc sống đạo nào, dù sốt sắng đến đâu đi nữa, như được ơn ngất trí xuất thần, mà c̣n cậy ḿnh khinh chê hay xa lánh những người khô đạo, bỏ đạo, chống đạo, hay chưa tự nhiên gây được một tác dụng cải hoá nhân sinh nào v.v., th́ cuộc sống đạo ấy vẫn chưa phải là cuộc sống đạo đích thực, hay chỉ là một cuộc sống đạo tầm thường, c̣n cần phải được thanh luyện bằng những thánh giá, thậm chí bằng những sa ngă phạm tội, để cuộc sống đạo này có thể đạt tới mức tinh tuyền trọn hảo, xứng đáng kết hiệp với "Thiên Chúa là Thần Linh" (Jn.4:24)

            Thế nên, cuộc đời sống đạo của Kitô hữu, giai đoạn đầu, chẳng khác ǵ như một cuộc tiến lên núi thánh, nơi chứng tỏ Kitô hữu đă được siêu thoát trên tất cả mọi sự phàm tục, mọi tơ vương quyến luyến không phải là chính Thiên Chúa hay chính ư muốn toàn thiện của Ngài, để nhờ đó, sang giai đoạn sau, họ trở nên "một thành xây trên núi không dấu được nữa" (Mt.5:14), tức là nơi nhân gian hướng về để "thấy sự thiện hảo nơi các việc làm của (họ) mà ngợi khen Cha trên trời của (họ)" (Mt.5:16).                    Cũng theo chiều hướng này, cuộc sống đạo của Kitô hữu c̣n có thể được so sánh với việc ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, ở vào giai đoạn đầu, được Chúa Giêsu dẫn lên núi cao, trên đó, các vị được chiêm ngưỡng trước toàn diện vinh hiển của Người, và ở vào giai đoạn tiếp ngay sau đó, các vị lại theo Chúa Giêsu xuống núi, để cùng với Người tiến dần vào cuộc tử nạn vô cùng đau thương của Người, Đấng đă "đến không phải để được phục vụ mà là để phục vụ, để hiến ḿnh làm giá chuộc cho nhiều người" (Mt.20:28).

            Như thế, t́nh yêu Thiên Chúa hay Thánh Thần Thiên Chúa ở trong Kitô hữu không những là một kho tàng Thánh Sủng được chôn giấu nơi thửa ruộng nhân tính của Kitô hữu, mà c̣n là một ḥn ngọc Đức Ái họ phải t́m kiếm và chiếm hữu bằng bất cứ trị giá từ bỏ nào (x.Mt.13:45).

            T́nh yêu Thiên Chúa hay Thánh Thần Thiên Chúa nơi Kitô hữu không thể nào bị ứ đọng như trong một ao tù, mà phải là một mạch nước vọt lên sự sống đời đời (x.Jn.4:14) cho các linh hồn. Nếu t́nh yêu Thiên Chúa chảy từ ḷng Cha trên trời xuống cho Kitô hữu qua Đức Kitô thế nào, th́ t́nh yêu này cũng phải tiếp tục chảy đến tận cùng thế giới, tới khắp nhân gian.

            Như thế, là môn đệ của Chúa Kitô, Đấng đă "v́ họ tự hiến để họ được thánh hoá trong chân lư" (Jn.17:19), để họ nhận biết rằng Người đă được Cha Người yêu thương thế nào Người cũng yêu thương họ như vậy (x.Jn.15:9), Kitô hữu cũng phải bắt chước Người "yêu thương nhau như Thày đă yêu thương các con" (Jn.15:12), tức là "Thày yêu thương các con thế nào, các con cũng phải yêu thương nhau như vậy" (Jn.13:34).

            Đó là tất cả ư nghĩa của cuộc sống đạo Kitô giáo. Vậy Kitô hữu sống đạo ở chỗ nhận biết t́nh yêu Thiên Chúa nơi ḿnh, làm cho t́nh yêu này phát triển mạnh mẽ, đến độ có một khả năng và tính chất hoàn toàn thần linh, có thể thông truyền sự sống của Thiên Chúa cho thế gian, làm cho thế gian qua họ mà "nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô" (Jn.17:3).